Đài PTTH Hà Nội
Đài PTTH Hà Nội

Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kết tinh truyền thống nhân ái, nhân văn, nhân nghĩa, nhân đạo của dân tộc Việt Nam suốt hàng nghìn năm lịch sử. Nó kế thừa, phát triển các bản hùng ca, tuyên ngôn độc lập “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi lên một trình độ mới, chất lượng mới, sức sống mới, năng lượng mới và sinh khí mới. Nó là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của các bậc tiền bối như Nguyễn Trung Trực “Bao giờ hết cỏ nước Nam mới hết người nam đánh Tây”, của Trần Tấn, Đặng Như Mai “Dập dìu trống đánh cờ siêu. Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”, của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, v.v.. Gần hơn, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là kết quả của bản Yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 gửi tới Hội nghị Vécxây, của Chương trình Việt Minh năm 1941, của lời Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc, ngày 6-6-1941, của Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, tháng 8-1945.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Bản Tuyên ngôn độc lập là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong những trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”.

Bản Tuyên ngôn độc lập tỏ rõ ý chí, tinh thần tự lực, tự hào, tự tin dân tộc. Lập luận bằng những lẽ phải, điều hiển nhiên là quyền tất yếu của mỗi dân tộc, Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 dùng “gậy ông đập lưng ông” qua bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 để nhấn mạnh, khẳng định một lẽ phải, một niềm tin không ai chối cãi được. Đó là tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do, quyền sung sướng và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Đài PTTH Hà Nội

Những dòng trong bản Tuyên ngôn độc lập toát lên chất thép, chất nhân văn, nhân đạo và chính nghĩa, biểu thị sự anh dũng, ngoan cường, tinh thần khoan hồng, độ lượng trước sự tàn bạo hơn 80 năm của thực dân Pháp. Kẻ thù lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để áp bức, nô dịch đồng bào ta trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội làm cho dân ta không có một chút tự do dân chủ nào; nòi giống ta suy nhược; nhân dân ta mù chữ; hơn hai triệu đồng ta bị chết đói. Tuy vậy, đối với người Pháp, nhân dân ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, cứu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ.

Từ năm 1940, nước ta trở thành thuộc địa của Nhật và khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập khẳng định: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

Chúng ta tự hào, tự tin tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

Bản Tuyên ngôn độc lập là một trang sử vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ nguyên mới độc lập tự do, dân chủ cộng hòa. Nó tỏa sáng khát vọng tự cường. Dân tộc ta đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp, gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật, nên Dân tộc ta phải được tự do! Dân tộc ta phải được độc lập! Sự thực Việt Nam đã thành một nước tự do và độc lập.

Đài PTTH Hà Nội

Trang sử vẻ vang về quyền độc lập và khát vọng tự cường của dân tộc Việt Nam không chỉ dựa trên những nguyên tắc bình đẳng mà các hội nghị quốc tế Têhêrăng và Cựu Kim Sơn ghi nhận, mà một điều quan trọng nữa, quan trọng hơn là chúng ta đã “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Vì vậy, nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.

Khát vọng tự cường của nhân dân Việt Nam có cơ sở từ truyền thống hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; từ thành quả của Cách mạng Tháng Tám và giá trị của Tuyên ngôn độc lập.

Khát vọng và niềm tin tự cường đó đã tạo nên cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng to lớn như ngày nay để chúng ta vững niềm tin bước tiếp vào một giai đoạn phát triển mới, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, tiến bước cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vô vàn kính yêu.

Tác giả: PGS.TS Bùi Đình Phong
Thiết kế: Thanh Nga