
Cách mạng Tháng Tám - bước khởi đầu xây dựng LLVT theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Cách mạng Tháng Tám - bước khởi đầu xây dựng LLVT theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa đập tan xiềng xích nô lệ, giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng, trong đó công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng giữ vai trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; đồng thời, minh chứng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và sự chuẩn bị hiệu quả cho hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Cách mạng Tháng Tám - bước khởi đầu xây dựng LLVT theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, ngay tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Chánh cương vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã nêu rõ yêu cầu “tổ chức ra đội quân công nông”. Trong phong trào cách mạng 1930 - 1931, đội tự vệ công nông đã xuất hiện, tích cực chiến đấu, bảo vệ quần chúng, chính quyền cách mạng và tiến hành công tác vận động quần chúng. Đại hội đại biểu lần thứ nhất (1935), Đảng ta đã ra Nghị quyết về Đội tự vệ, trong đó nêu rõ: “Từ Trung ương Chấp ủy tới mỗi Thành ủy, Tỉnh uỷ phải tổ chức ngay Quân ủy, quân ủy này một bộ phận thì lo quân đội vận động, một bộ phận thì lo tổ chức và chỉ huy Đội Tự vệ”.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương, thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai ra sức khủng bố, tăng cường đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc vận động giải phóng dân tộc bước vào thời kỳ mới, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đưa lên hàng đầu. Sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa truyền thống quân sự dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Người đề ra chủ trương, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, dựa vào những luận điểm, nguyên tắc cơ bản:

Lực lượng vũ trang ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng; vì vậy, muốn xây dựng lực lượng vũ trang mạnh thì phải bắt đầu từ việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. Khi các tổ chức và đoàn thể cách mạng phát triển, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng càng mạnh thì càng tạo cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang thắng lợi.
Xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên”.
Lực lượng vũ trang cách mạng của ta là từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ; do đó, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong lời căn dặn của Người với đồng chí Võ Nguyên Giáp khi chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tháng 12/1944): “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”.
Lực lượng vũ trang nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản, “phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo”. Bởi chỉ có như vậy thì lực lượng vũ trang mới thể hiện đầy đủ bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, mới thực sự là lực lượng chính trị trung thành của Đảng, của Nhà nước, vì lợi ích của Tổ quốc, có sức chiến đấu cao nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng theo phương châm “người trước, súng sau”. Từ sau Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đến đầu năm 1945, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Trung ương Đảng đã cử nhiều cán bộ sang học tập, bồi dưỡng kiến thức quân sự ở nước ngoài. Một số tài liệu (“Chiến thuật du kích”, “Phép dùng binh của ông Tôn Tử”...) cũng được Người viết hoặc dịch ra để bồi dưỡng kiến thức quân sự cho đội ngũ cán bộ tại căn cứ. Trong điều kiện cách mạng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, lực lượng vũ trang ta phải nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh”, sử dụng hiệu quả mọi loại vũ khí trong tay, sẵn sàng cướp vũ khí địch để trang bị cho ta và tận dụng sự chi viện giúp đỡ từ bên ngoài.

Cách mạng Tháng Tám - bước khởi đầu xây dựng LLVT theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Theo đó, lực lượng vũ trang cách mạng từng bước được xây dựng, tích cực hoạt động và đóng góp to lớn vào thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ năm 1939 đến năm 1943, nhiều cuộc khởi nghĩa trên cả nước bùng nổ, dẫn đến sự ra đời của nhiều tổ chức vũ trang địa phương, như Du kích Bắc Sơn, Du kích Nam Kỳ... Các tổ chức vũ trang này tích cực hoạt động, thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.
Theo chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập. Từ đây, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã bước đầu hình thành. Đêm ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Phong trào đấu tranh vũ trang và các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp diễn ra, đẩy quân Nhật và chính quyền tay sai vào khủng hoảng trầm trọng. Tháng 4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 15/5/1945, tại Định Biên Thượng (Thái Nguyên) diễn ra lễ hợp nhất các tổ chức vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân.
Ngày 13/8/1945, Nhật hoàng đầu hàng Đồng minh. Quân Nhật tại Đông Dương mất tinh thần, chính phủ tay sai hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đảng ta triệu tập Hội nghị toàn quốc, nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào. Quốc dân Đại hội tán thành chủ trương của Đảng. Trong thư kêu gọi, lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Hưởng ứng lời kêu gọi, lực lượng vũ trang cách mạng đã phát huy vai trò nòng cốt: làm nòng cốt tuyên truyền vận động quần chúng, tích cực làm công tác địch vận, phân hóa hàng ngũ kẻ thù; xung kích xóa bỏ chính quyền địch, trấn áp và tiêu diệt các lực lượng ngoan cố; trực tiếp hỗ trợ, bảo vệ phong trào quần chúng giành chính quyền. Nhờ đó, cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh gọn, đồng loạt.
Trên cơ sở thắng lợi ấy, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một mốc son trọng đại trong lịch sử dân tộc, đồng thời là thành quả trực tiếp của việc xây dựng lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

